Phân tích thi phẩm "Tự tình II" của Hồ Xuân Hương

phan-tich-thi-pham-tu-tinh-II-cua-ho-xuan-huong-750.webp

Bài làm

Trong sự khắt khe của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ bị gạt ra bên lề, bị mất đi tiếng nói. Ngay cả trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, tiếng nói của nữ tính dường như cũng bị giấu kín, chỉ còn tâm sự của các hiền nhân, quân tử:

Thì Hồ Xuân Hương xuất hiện như một hiện tượng độc đáo. Với cái tôi mới lạ, sắc sảo “bà chúa thơ Nôm” đã phản kháng mạnh mẽ trật tự, khuôn khổ của xã hội phong kiến. Trong thi phẩm “Tự tình II” Hồ Xuân Hương đã giãi bày trực tiếp nỗi niềm, tâm sự của bản thân. Từ đó cất lên tiếng nói đồng cảm, xót thương đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, đồng thời đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ.

“Tự tình II” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bằng sự tài tình và tinh tế bà đã biến tấu từ một thể thơ nổi tiếng của Trung Quốc trở thành một nét thơ riêng của mình. Đúng như Lê Trí Viễn đã nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiến vần điệu cân xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Tự tình là tự phô bày, bày tỏ cái tình của mình. Đây là một kiểu thơ thường gặp trong thơ Trung Đại như: “Tự thuật” – Nguyễn Trãi, “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão… Các nhà thơ thường tự tình khi tâm trạng, cảm xúc nỗi niềm trào dâng mãnh liệt, có nhu cầu, có khát khao được bày tỏ. Đây chính là quy luật của bài thơ.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ta bước vào một không gian và thời gian rất đỗi quen thuộc, nỗi niềm cô đơn của con người hiện ra:

Đêm đã về khuya, vạn vật đang chìm vào giấc ngủ, đây là lúc lòng người trở nên sâu lắng nhất, là lúc đối diện với chính bản thân mình. Đó cũng là khoảng thời gian con người có nhiều tâm sự nhất, yếu đuối nhất và thành thật nhất. Từ láy “văng vẳng” gợi lên cho ta một không gian mênh mông, rộng lớn nhưng tĩnh lặng và trống trải, con người bỗng trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn hơn. Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi buồn. Cái buồn gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Cùng với một tâm trạng trống vắng, cô đơn người phụ nữ bỗng nhận ra sự bẽ bàng trong chính duyên phận của mình “Trơ cái hồng nhan với nước non”. “Hồng nhan” là chỉ cái đẹp của người phụ nữ. Nhưng đã gọi là “cái hồng nhan” thì có nghĩa là cái đẹp đó không còn nữa. Bởi vì từ “cái” đặt ở trước từ “hồng nhan” thành một cụm danh từ cho nên danh từ đó đã được cụ thể hóa. Từ “cái” bao giờ cũng làm cho sự vật trở nên cụ thể hơn, có thể cầm nắm, sờ nếm, ngửi được mà “hồng nhan” là một danh từ chỉ vẻ đẹp dung mạo, thần thái, khí chất của người phụ nữ. Nhưng đặt từ “cái” đứng trước thì nghĩa là vẻ đẹp ấy đã tàn phai, đã hao mòn, đã không còn đẹp nữa. Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Tuy nhiên, cảm xúc này của nhân vật trữ tình không phải cảm xúc tầm thường, bởi nhà thơ đang đối diện với mình, với non nước. Cụm từ “với nước non” cho thấy nỗi niềm, tâm sự của nhà thơ trải theo không gian, bao trùm lên cảnh vật theo tầm mắt của nhà thơ. Nó không phải làm cảm xúc tầm thường, nhỏ bé. Trái lại, nó mênh mông, thấu suốt cả đời mình, thấu suốt cả nhân gian. Bởi vậy mà, từ “trơ” còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta nghĩ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Thăng Long thành hoài cổ”:

Xem thêm:  

Nếu hai câu đề làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

Nỗi sầu muộn quá lớn khiến nhà thơ phải mượn rượu để giải sầu. Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vương vấn, nhanh tàn để lại sự mệt mỏi, rã rời. Vòng luẩn quẩn ấy gợi lên một chuyện tình duyên giống như một trò đùa của tạo hóa. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn Hồ Xuân Hương mong nhận được sự an ủi và cảm thông. Tác giả sử dụng câu thơ tả cảnh ngụ tình cho thấy sự đồng nhất giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. Bức tranh thiên nhiên cũng nhuốm buồn theo tâm trạng của nữ sĩ, quả thật:

Đồng thời, cụm từ “say lại tỉnh” còn cho thấy say chỉ một khoảnh khắc còn tỉnh lại là mãi mãi. Thậm chí, trước khi say nỗi sầu đã đong đầy mà đến khi tỉnh thì nỗi sầu ấy lại tăng lên gấp bội lần. Giống như tiên thi Lí Bạch đã từng cảm nhận:

Dịch:

Quy luật tình cảm của con người là thế, sầu thuộc về tâm trạng: “Sầu không có mối chém sao cho đứt/ Sầu không có khối đập sao cho tan”. Uống rượu có thể là một hoạt động ước lệ của Hồ Xuân Hương nhưng qua đó cũng đủ cho người đọc thấy rằng nhà thơ đang rất buồn, đang đối diện với chính mình, cô đơn và cô độc giữa đêm khuya thanh vắng. Thi nhân chống lại nỗi buồn bằng cách ngắm vầng trăng. Nhưng, Hồ Xuân Hương ngắm trăng mà lòng không thư thái bởi nhà thơ nhận ra rằng: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trăng đã tàn, đã xế bóng cũng như tuổi đời của con người không còn trẻ trung nữa. Có thể thấy, nỗi sầu của thi nhân đã được tái hiện qua cặp câu thực đối rất chỉnh “say – tỉnh” và “khuyết – tròn”. Sầu vì tuổi đã cao mà duyên chưa chọn, sầu vì sự cô đơn, lẻ bóng một mình.

Xem thêm:   Những Người Khốn Khổ

Đến với hai câu luận từ những từ ngữ đến hình ảnh và giọng thơ cho ta thấy phần nào tâm trạng phẫn uất, đau đớn tột cùng của tác giả:

Một loạt động từ mạnh “xiên, đâm” cùng sự kết hợp của bổ ngữ “ngang, toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ương ngạnh, phản kháng. Những sinh vật nhỏ bé, thân phận hèn mọn, mềm yếu như “rêu” cũng chẳng chịu khuất phục mà muốn “xiên ngang mặt đất” để trổi dậy và trở nên mạnh mẽ hơn. “Đá” vốn dĩ đã rắn chắc nhưng lại càng muốn trở nên cứng cáp, nhọn hoắt hơn để có thể “đâm toạc chân mây”. Cùng với biện pháp đảo ngữ đã nhấn mạnh dù ở trong hoàn cảnh bi thảm nhất vẫn ẩn chứa một khát vọng mạnh mẽ, muốn vươn lên khỏi thực tại đau buồn, thể hiện sự phản kháng dữ dội, quyết liệt. Với sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ táo bạo, hình ảnh mạnh mẽ, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ gợi lên cảnh vật đầy sinh động, đầy sức sống mãnh liệt. Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng giống như sự phản kháng của thiên nhiên cũng chính là sự phản kháng của con người.

Nhưng Xuân Hương dù tư tưởng có thể đi trước thời đại nhưng trong đời thực vẫn không thể vượt qua khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, ngông cuồng, nổi loại dù táo tợn thế nào cũng chỉ là những vùng vẫy trong giới hạn ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài đầy ngao ngán:

Mùa xuân của vũ trụ, đất trời có thể tuần hoàn trở đi trở lại nhưng xuân của đời người thì mãi mãi không bao giờ có thể. Bởi vậy xuân của đất trời trở về càng càng làm cho con người thấy vô nghĩa và buồn tủi mà thôi. Thi nhân cố gắng gượng đến bao nhiêu thì cũng chỉ là một mảnh tình không trọn vẹn lại còn “san sẻ” cho nên “tí con con”. Từ “lại lại” không phải là từ láy mà là hai từ đơn hoàn toàn tách biệt. Từ “lại” thứ nhất là phó từ được dùng để nhấn mạnh thể hiện hàm ý: mong muốn cho sự việc lặp lại, diễn ra. Còn “lại” thứ hai là động từ chỉ hướng trở lại. Điều tinh tế ở đây là Xuân Hương dùng từ “mảnh tình” chứ không phải là “tấm tình” hay “cuộc tình” cho thấy sự nhỏ bé, mong manh hao khuyết đến ức xót xa, tội nghiệp. Khao khát hạnh phúc bao nhiêu thì hiện thực trae về càng buồn tủi bấy nhiêu. Khát khao về hạnh phúc vì vậy càng trở nên trớ trêu, da diết, đáng thương.

Xem thêm:   15 WEBSITE VÀ ỨNG DỤNG HỌC TIẾNG NHẬT HỮU ÍCH

“Tự tình II” được xem là một kiệt tác đã làm nên tên tuổi của Hồ Xuân Hương với ngôn ngữ thơ điêu luyện, cảm hóa thể thơ thất ngôn bát cú để trở nên gần gũi với người Việt hơn. Qua đó bộc lộ được tài năng và phong cách của nữ sĩ. Tác giả còn khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa. Càng tinh tế hơn trong việc sử dụng các thủ pháp cổ xen lẫn những nghệ thuật độc đáo và động từ mạnh để đem đến một bài thơ như tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ khi phải gánh chịu sức ép của thế lực phong kiến tàn bạo.

Khát vọng hạnh phúc bao nhiêu thì hiện thực trả về càng buồn tủi bấy nhiêu, khát khao về hạnh phúc vì thế càng trở nên buồn tủi, da diết, đáng thương. Điều đọng lại cuối cùng mà người đọc cảm nhận vẫn là nỗi sầu về hạnh phúc. Câu hỏi lớn nhất mà Hồ Xuân Hương gửi đến người đọc đó là: Tại sao người phụ nữ lại luôn phải chịu bất hạnh và thiệt thòi? Tại sao người phụ nữ lại không có quyền hưởng hạnh phúc một cách chính đáng? Câu hỏi như một niềm cảm hứng day dứt bao trùm toàn bài thơ. Đó cũng chính là cách gián tiếp lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến và đòi quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi đó trong xã hội hiện đại ngày nay cần phải khẳng định rằng người phụ nữ chỉ thực sự hạnh phúc khi chính họ tạo dựng niềm hạnh phúc cho riêng mình mà không phải trông đợi, phụ thuộc vào người khác. Rõ ràng ta thấy ở thời phong kiến, người phụ nữ là thân phận phụ thuộc, nhưng ở cuộc sống hiện tại, người phụ nữ có quyền tự chủ và phải biết phát huy tinh thần tự chủ đó. Ở một khía cạnh khác khi đọc bài thơ “Tự tình” mỗi người chúng ta hãy biết đồng cảm, chia sẻ với những bất hạnh với những mảnh đời chưa được hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân đạo – một khía cạnh trong thông điệp mà bài thơ muốn gửi đến người đọc.

Khép lại trang sách ở đây, ta bỗng nhớ lại câu nói của giáo sư Lê Trí Viễn: “Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường”. Quả thật là như vậy hồn thơ dạt dào đã cho các độc giả cảm nhận được sự tàn bạo của xã hội phong kiến cùng những nỗi chua xót cho thân phận của người phụ nữ. Thông qua bài thơ đã thể hiện được giá trị hiện thực và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”.

Related Posts