Đất quê hương – bút ký Mai Văn Tạo

An Giang! Từ những ngày còn là bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc Pôn Pốt – Yêng Xa-ry, tôi đã về đây cùng với nỗi đau, nỗi giận. Trong những cơn lũ lụt hoành hành tràn ngập mênh mông khắp cả quê hương, tôi cũng đã về tận đầu nguồn chứng kiến cuộc đọ sức của bà con ta với lũ lụt.

Trước ngày giải phóng, tôi đã về đây, nhưng chỉ được đi qua, không được dừng lại, không được ngắm nhìn! Tôi lững thững đi vào đường phố Châu Đốc, Long Xuyên như một con người nhàm chán mảnh đất đang đi. Như thể kẻ lạc loài trôi dạt. Có đau xót nào bằng! Đặt chân lên đất quê hương, bóng núi làng xưa phía trước, những con đường thành phố tôi qua lại suốt tuổi ấu thơ hiện ra ngay trước mắt, vậy mà tôi phải lẳng lặng đi qua, như con tàu dửng dưng trôi ngang bến lạ. Nhưng dù chưa phải bến buông neo, con tàu vẫn rúc lên những tiếng còi chào. Còn tôi, đưa con lìa xứ hai mươi năm, im lìm xuống bến, lên xe. Không được mừng vui, không được bước chân vào căn nhà cũ, không được reo lên hai tiếng thân yêu: quê mẹ! Kẻ thù lúc nhúc đầy chợ, đầy đường. Nước mắt tôi nhỏ xuống bến nước Châu Giang, khi tôi tựa mạn đò qua Cồn Tiên, nhìn lên vàm kinh Vĩnh Tế. Và nước mắt ướt mãi kính màu suốt chặng đường Châu Đốc – Long Xuyên.

Sau ngày giải phóng, tôi hối hả về quê, về mãi, không nhớ bao nhiêu lần. Nhưng lần nào tâm trạng cũng nôn nao, khấp khởi, xao xuyến, bồi hồi. Con chim sải cánh trở lại rừng xưa sau cơn giông mưa nát tổ. Con cá quạt đuôi quay về bến sông nhà. Người vượt trùng dương đã ngửi thấy mùi cỏ đất liền sau cơn bão táp đó chăng? Không sao phân tích nổi tâm trạng mỗi lần tôi về quê mẹ An Giang, mỗi lần đặt chân lên mảnh đất đầu làng Vĩnh Tế – một làng quê cằn cỗi – nơi tôi cất tiếng chào đời và là cái bệ phóng đưa tôi ra nhiều nẻo đường đời.

Thông thường người đi xa trở lại quê nhà hay kể với bà con láng giềng chuyện lạ phương xa. Riêng tôi về làng, về xứ, lúc nào cũng thích nói cái đẹp, cái lớn quê mình. Có lẽ vì tôi yêu quê hương thắm thiết, yêu đến độ đam mê như một kẻ si tình yêu cả cái dở của người yêu.

Xem thêm:   Làm sao để tự tin trong mọi việc? Chỉ cần nhớ chữ N...

Tuổi thơ tôi đã hằn sâu trong ký ức những ngọn núi trông xa lấp lánh như kim cương, lúc xa mờ, khi xanh thẫm, lúc tím lơ, khi rực rỡ như núi ngọc màu xanh. Những năm tháng xa quê, giông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất cả, nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy, những dòng kinh biêng biếc vẫn lặng lờ trôi. Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa, mù mù khói rạ thơm vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau Tết. Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm thẳm canh khuya. Tôi yêu ánh nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì, nghiêng nghiêng bên triền núi. Biết bao đêm trăn trở tôi viết bao trang về con rạch nhỏ cạn lờ chảy qua bến Miễu, cát vàng xâm xấp nước. Tôi yêu màu đá xám đen, tấm phên xác xơ che nắng cho người đập đá. Tôi nhớ ngọn cỏ phất phơ giữa đồng nước lớn, cây cà na trái nặng chùm chùm, cây gáo mồ côi, cây gáo đôi im lìm xa xa ngoài đồng bãi. Như con chiên ngoan mơ về “Đất Hứa”, tôi da diết mong gặp lại cây đa bến Miễu, cây me già Đá Chẹt, con đường quanh co lồi lõm lên pháo đài. Tôi nhớ những dòng nước lấp lánh từ triền đá cao ào ào đổ xuống, róc rách len vào khe đá rồi thong thả bò qua con đường trải đá, chảy xuống xóm làng.

An Giang từ bao giờ đến bây giờ, cuối thế kỷ 20, là đất nóng, là bãi chiến trường. Bờ cõi An Giang đời này sang đời khác luôn bị xâm lăng và đẫm máu. Người An Giang thế hệ này sang thế hệ khác chăm lo làm ăn, luyện rèn võ nghệ, hai việc song song. Nhiều nhà sư làm thầy dạy võ, mai danh ẩn tích chờ đợi thờ cơ. Sức nặng của nhiều đạo giáo, sức nặng gươm súng kẻ thù và sự hung hãn của thiên nhiên triền miên đè nén mảnh đất An Giang. Không cam chịu đứng yên, vùng vẫy thoát ra để giữ yên bờ cõi là đặc tính truyền đời của người sống trên mảnh đất mỡ màng nhưng cũng lắm gian nan, cơ cực. Có phải ngẫu nhiên mà bao nhiêu đời qua An Giang độc tôn cây “lúa sạ”. Một giống lúa diệu kỳ, nước càng dâng cao lúa càng cao hơn nước (Phạm Văn Đồng). Dòng Cửu Long vượt thác ghềnh, băng băng dồn nước xuống vườn ruộng An Giang. Nước tràn sóng cuộn ào ạt như Thủy Tinh lên cơn thịnh nộ. Nước cuốn trôi làng xóm. Nước bứng đi nguyên cả cánh đồng lúa khổng lồ. Không sống khỏe không vươn cao như cây lúa sạ, đất An Giang có lẽ chỉ còn lả một vùng đất hoang vu rối mù những cỏ. An Giang đứng ngay đầu nguồn, chịu sóng đập nước xô. Cây lúa sạ với con người đã sống kiên cường trên mảnh đất sông nước hung hăng. Kinh Vĩnh Tế như đại trường giang vượt qua ghềnh đá, rừng hoang, gò nổng vươn thẳng tới Hà Tiên. Kinh Vĩnh An nối liền sông Hậu – Sông Tiền cũng đâu phải chuyện ngẫu nhiên. Sử liệu còn ghi: “Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng chẳng nhỏ…”

Xem thêm:   [Bookademy] 15 Quyển Sách Hay Hài Hước Nên Đọc - YBOX

Bởi lẽ “Châu Đốc tân cương” là ranh giới hoang rậm xa xôi, thường hay sinh biến… muốn giữ được ngoài biên, yên trong bờ cõi phải nghiêm đặt doanh đồn dài theo kinh Vĩnh Tế. Hai dòng nước Vĩnh Tế, Vĩnh An là đường giao thông cấp báo, cứu nguy giữ các thành Hà Tiên, Châu Đốc với các đồn bảo Giang Thành, Lạc Quới, Tân Châu.

Mồ hôi và máu của lớp lớp người xưa đã quện lại trên những bờ kinh biêng biếc, trên cánh đồng xanh um rau quả xuân hè, vàng rộm lúa thu. Có thể nào quên màu xanh cây bát ngát, màu lúa vàng xao xuyến hôm nay đã trỗi dậy từ những đầm lầy hoang sơ của một thời xa khốn khó.

Rặng núi Thất Sơn – niềm kiêu hãnh của An Giang – một bức tranh hoành tráng uy nghi của cả miền châu thổ Cửu Long. Những ngọn núi chứa đầy thuốc quý và huyền thoại xưa, nay. Những con đường đèo dốc lưu dấu chiến công. Những thung lũng sum suê cây trái. Những ngọn đồi, làng xóm ghi biết bao sự tích anh hùng. Hồ Đá, Rừng Tràm, Láng Cháy, Núi Dài, Núi Tượng, Núi Cô Tô, Núi Phú Cường, Núi Cấm, Núi Nam Quy, Đồi Tức Dụp… nơi đó nghĩa quân mài kiếm múa gươm cứu nước thuở Cần Vương. Nơi đó hội tụ những nhà yêu nước Việt Nam, Cam-pu-chia bàn mưu đánh Pháp. Nơi đó từng đón đưa các nhà chí sĩ Phan Bội Châu, Thủ Khoa Huân, Bùi Hữu Nghĩa, Cử Trị, Nguyễn Thông. Nơi đó hai tên đế quốc Pháp, Mỹ hùng hổ nhưng chưa hề chiếm được vùng núi Thất Sơn. Cho dù tên sen đầm quốc tế Mỹ đã dùng đến biết bao trận bom hủy diệt.

Xem thêm:   Động lực trong cuộc sống

Lịch sử An Giang đã viết bằng những cuộc đời lận đận, những số phận bi thương, những tâm hồn vĩ đại, bằng máu và nước mắt, bằng những lưỡi gươm và cây tầm vông vạt nhọn, bằng những mũi phi tiêu và cây súng thô sơ. Tới bây giờ tôi được vinh hạnh viết cuộc đời của mẹ – người mẹ An Giang – bằng cây bút. Hạnh phúc cho người cầm bút biết bao!

An Giang! Tôi đang theo từng bước chân của Mẹ, của cha ông gian truân, lẫm liệt. Tôi đang khao khát nghe “tiếng trống Giang Thành” trong những đêm giặc hãm vây thành cổ. Tôi muốn thấy lại ánh lửa đồng những đêm Cố Quản Trần Văn Thành luyện tập nghĩa quân Láng Cháy. Tôi đã về Hồ Đá, An Định, Thới Sơn… tìm những lùm bụi nào các chí sĩ Cần Vương hội tụ. Chỗ nào Cử Trị ngồi vắt óc làm thơ, Nguyễn Thông dạy học, Bùi Hữu Nghĩa trấn đồn, làm thơ ngẫm nghĩ sự đời? Tôi cũng đã về Mỹ Luông mấy lượt đứng bên chân cột dây thép ông Đỏ treo cờ khởi nghĩa năm 1940. Tôi đã qua Kiến An nhìn tận mắt cái lò rèn của bác thợ Gộc rèn gươm khởi nghĩa. Tôi đã về làng Vĩnh Tế biết bao lần tìm mộ các anh Dược, Nguơn, Hay, giặc Pháp xử bắn các anh tại hầm cát cậu Tư Hoài. Tôi trở lại Vĩnh Thông đứng trên cầu sắt nhìn lại chiến trường xưa. Vệ quốc đoàn diệt gọn một tiểu đoàn Âu Phi trên cánh đồng trống trải, ba trận liền.

Những cơn gió chướng man mác đầu mùa gợi nhớ tiếng hát chiến công xưa:

Related Posts