Vô Thường là gì? Hiểu Đúng về Vô Thường trong Phật Giáo

“Vô thường” là một thuật ngữ cơ bản trong Phật học. Vô thường và Vô ngã là hai tính chất, hai tự tánh của tất cả các sự vật, hiện tượng. Vô thường đã được nói đến từ khi Phật chưa ra đời, nhưng với quan điểm: một số thường hằng, một số vô thường chứ không phải tất cả các pháp đều vô thường như sự chứng ngộ và tuyên thuyết của Đức Phật.

Vậy, “Vô thường” là gì? Hiểu đúng về “Vô thường” trong Phật giáo là như thế nào? Mời quý vị đọc tiếp bài chia sẻ hôm nay.

HIỂU ĐÚNG VỀ VÔ THƯỜNG

1. Một số cách hiểu phổ biến về Vô thường hiện nay

  • Vô thường (zh. 無常; sa. anitya; pi. anicca), là một trong Ba pháp ấn (sa. trilakṣaṇa) (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo Phật giáo, nghĩa là “không có gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều ở trong trạng thái thay đổi liên tục”. Trong lúc thiền quán, chúng ta có thể xác nhận chân lý vô thường khi chứng kiến tư duy và cảm nhận không bao giờ giống nhau, mà thay vào đó, luôn nằm trong một dòng chảy (ví dụ như khoảnh khắc thật ngắn của một mối tư duy duy nhất không bao giờ đứng yên, mà luôn chuyển tiếp đến một mối tư duy kế tục). Nếu quan sát một cách phân tích thì vô thường được xem như một sự thật, là vạn vật tồn tại trên cơ sở lệ thuộc vào cái khác nào đó, phát sinh từ cái khác nào đó và chuyển biến thành cái khác nào đó. Không một vật nào tồn tại độc lập, không vật nào thường còn. (theo Wikipedia)
  • Vô thường có nghĩa là mọi sự đều thay đổi, không có sự vật nào bất biến trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì nó thay đổi mỗi phút giây, nên chúng ta không thể mô tả một cách chính xác là lúc này nó giống hay khác với lúc trước đây. (theo phatgiao.org.vn)
  • Vô thường là không ở mãi một trạng thái nhất định, mà thay hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành để rồi biến hình đổi dạng và sau cùng đi đến sự tan rã. (theo thuvienhoasen.org)
  • Vô thường nghĩa là vạn vật luôn thay đổi và con người là vô ngã, tức con người do tứ đại hợp thành, không có thật. Nói vô thường và vô ngã để giúp chúng ta tận diệt khổ đau và đạt Niết bàn. Từ vô thường, chúng ta tìm cái thường còn, từ khổ đau, chúng ta tìm cái an lạc là Niết bàn có thường, lạc, ngã và tịnh. (theo giacngo.vn)

Như vậy, mặc dù các cách diễn đạt có khác nhau, nhưng đa phần giới học Phật hiện nay đều cho rằng: “Vô thường” nghĩa là biến đổi, tức là không có gì tồn tại mãi mãi, mọi sự đều thay đổi, biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.

2. Hiểu đúng và hiểu sai về Vô thường

2.1. Hiểu sai về Vô thường

Vô thường là một hệ quả được suy ra từ Lý duyên khởi (hay còn gọi là định luật Nhân – Quả), giáo lý quan trọng bậc nhất trong Đạo Phật. Đa phần giới học Phật hiện nay chưa có hiểu biết đúng sự thật về Lý duyên khởi, do đó, chưa có hiểu biết đúng sự thật về Vô thường.

Cách hiểu về Lý duyên khởi của đa số hiện nay: Đó là cách hiểu MỘT NHÂN sinh QUẢ hay MỘT NHÂN biến đổi thành QUẢ. Ví như hạt thóc sinh ra cây mạ, cây mạ biến đổi thành cây lúa, cây lúa phát sinh ra thóc, thóc biến đổi thành gạo, gạo biến đổi thành cơm, quả chuối xanh biến đổi thành quả chuối chín, đứa trẻ biến đổi thành người lớn, tiếng trống phát ra do cái trống, nước biến thành hơi nước … Sau này, khi các bộ phái Phật giáo ra đời, trong các luận giải, các chú giải của các bộ phái Phật giáo thì có quan sát sự thật nhiều hơn. Họ thấy rằng không phải một nhân biến đổi thành quả. Quan sát ví dụ như hạt thóc biến đổi thành cây mạ, nhưng một mình hạt thóc không thể nào biến đổi thành cây mạ được, mà phải có những yếu tố như độ ẩm, đất, v.v…, nhiều yếu tố nữa. Cho nên từ đó, các tông phái chủ trương, giải thích rằng nhân quả là “nhân chính biến đổi thành quả, có các nhân phụ khác hay duyên khác trợ giúp”. Ví dụ như: hạt thóc muốn biến đổi thành cây mạ, hạt thóc là nhân chính, biến đổi thành cây mạ nhưng phải có các nhân phụ như nước, độ ẩm không khí, v.v. là nhân phụ trợ giúp.

Với hiểu biết về Lý duyên khởi như vậy thì nhân trong quả, quả trong nhân, tương tức, tương nhập. Các pháp chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác, không có cái gì được sinh ra, không có cái gì mất đi, mà chỉ là quá trình biến đổi: nhân biến đổi thành quả, rồi quả đó lại đóng vai trò làm nhân biến đổi thành quả khác, như vậy là một quá trình diễn tiến liên tục nhân trong quả, quả trong nhân, trùng trùng điệp điệp. Đây chính là quan điểm duy vật – vật chất không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Và như vậy, đưa đến hệ quả là các pháp không sinh ra cũng không diệt đi mà chỉ biến đổi. Người ta dùng một từ rất hay là “các pháp chỉ trình hiện lên” thôi. Lúc thì nó ở chỗ này, lúc thì nó ở chỗ kia, lúc nó trình hiện chỗ này, lúc nó trình hiện chỗ khác. Bản chất của nó là không sinh ra, không diệt đi. Các pháp là thường hằng, không sinh, không diệt.

Xem thêm:   Khó khăn là gì? Ý nghĩa và cách vượt qua khó khăn cuộc sống

Như vậy, quan điểm một nhân sinh ra một quả, một nhân biến đổi thành quả, đưa đến quan điểm thường còn, các pháp là sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có. Nó chỉ biến đổi từ chỗ này sang chỗ khác, từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Quan điểm đó Phật giáo gọi là Thường kiến – một loại Tà kiến.

2.2. Hiểu đúng về Vô thường

Để có hiểu biết đúng sự thật về “Vô thường”, trước hết, cần có hiểu biết đúng sự thật về Lý duyên khởi (hay còn gọi là định luật Nhân – Quả), giáo lý quan trọng bậc nhất trong Đạo Phật.

Quan sát trong thực tế, chúng ta thấy rằng: tất cả các sự vật hiện tượng đều phát sinh theo định luật nhân quả theo cách thức: “Hai nhân tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt, mới phát sinh ra một hay nhiều quả”. Ví như có gói thuốc nhuộm đỏ và một chậu nước trong là hai nhân, nhưng hai nhân này chưa tiếp xúc nhau thì chưa có gì xảy ra. Khi hai nhân này tiếp xúc nhau, thì cả hai nhân là gói thuốc nhuộm đỏ và chậu nước trong đều cùng diệt đi và phát sinh quả là chậu thuốc nhuộm đỏ. Chậu thuốc nhuộm đỏ với cái áo trắng tiếp xúc nhau rồi cả hai cùng diệt, phát sinh cái áo đỏ và một chậu thuốc nhuộm đỏ khác có nồng độ và thể tích khác chậu thuốc nhuộm đỏ ban đầu. Viên đá lửa và bánh xe bật lửa tiếp xúc nhau rồi cùng diệt đi, phát sinh ánh lửa và viên đá mới, bánh xe mới. Trống và dùi là hai nhân, khi hai nhân đó tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt (trống cũ, dùi cũ diệt) phát sinh ra tiếng trống và trống mới, dùi mới. Oxy và Hydro là hai nhân, tiếp xúc nhau rồi cùng diệt, phát sinh ra nước, v.v…

Như vậy, tất cả các sự vật, hiện tượng (tất cả các Pháp) đều phát sinh do Duyên khởi, do có tương tác giữa 2 nhân mà khởi lên (cái áo đỏ phát sinh là do tương tác giữa cái áo trắng và chậu thuốc nhuộm đỏ; tiếng trống phát sinh là do tương tác giữa trống và dùi; ánh lửa phát sinh là do tương tác giữa viên đá lửa và bánh xe; nước phát sinh là do tương tác giữa oxy và hydro,v.v), chứ không phải các pháp là biến đổi từ pháp này thành pháp khác. Cái trống không biến đổi thành tiếng trống, cái dùi không biến đổi thành tiếng trống, mà sự tương tác giữa trống và dùi phát sinh ra tiếng trống, do đó, tiếng trống là pháp duyên khởi. Tương tự như vậy, viên đá không biến đổi thành ánh lửa, bánh xe không biến đổi thành ánh lửa, mà sự tương tác giữa viên đá và bánh xe mới phát sinh ra ánh lửa. Oxy không biến đổi thành nước, hidro không biến đổi thành nước, mà sự tương tác giữa oxy và hidro phát sinh ra nước,v.v…

Và các pháp cũng do tương tác với nhau mà diệt đi. Do tương tác giữa trống và dùi mà cả trống và dùi cùng diệt đi (trống và dùi đều mòn đi một chút, không còn là trống và dùi ban đầu); do tương tác giữa viên đá và bánh xe mà cả viên đá và bánh xe cùng diệt đi (viên đá và bánh xe mòn đi, không còn là viên đá và bánh xe ban đầu); do tương tác giữa oxy và hidro mà cả hidro và oxy cùng diệt đi v.v…

Như vậy, bất kỳ một pháp nào cũng đều do duyên khởi, do duyên mà sinh và cũng do duyên mà diệt. Các pháp đều đang sinh lên và diệt đi liên tục, không có cái nào là cố định, không có cái nào là thường hằng. Trước khi sinh ra nó không ở đâu cả, và sau khi diệt đi nó cũng không đi về đâu cả. “Sinh không từ đâu tới, diệt không đi về đâu”, đó là ý nghĩa của chữ vô thường, và cũng là ý nghĩa của từ “Như Lai”. Từ Như Lai trong giáo pháp, trong Kinh điển mang nội dung sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu.

Tóm lại, vô thường là sinh lên rồi diệt đi, trước khi sinh không ở đâu cả, sau khi diệt đi không về đâu cả, chứ không phải vô thường là biến đổi như hiểu biết của nhân loại.

Tham khảo thêm bài viết “LÝ DUYÊN KHỞI hay Định luật Nhân Quả Là gì?”

Tham khảo thêm bài viết “Lý duyên khởi và vô thường vô ngã”, “Các hành vô thường, các pháp vô ngã”- Đại đức Nguyên Tuệ

3. Biểu hiện của tư tưởng “Chấp Thường” trong đời sống

Bản chất của tất cả các sự vật, hiện tượng là Vô Thường, nhưng nhân loại do không chấp nhận vô thường hoặc hiểu sai về vô thường nên nhân loại đang sống với tư tưởng “Chấp Thường”, sống trái với sự thật Vô Thường như vậy nên cuộc sống đầy mâu thuẫn, xung đột, quẩn quanh trong đau khổ.

Xem thêm:   Top 6 Truyện Thần Thoại Hy Lạp Phải Đọc

Một số biểu hiện của tư tưởng “Chấp Thường” như sau:

– Tất cả nhân loại, trong phạm vi một đất nước, một công ty, một gia đình, một con người, đều hướng tới sự ỔN ĐỊNH, mong cầu sự ổn định, khao khát sự ổn định.

Một đất nước, một quốc gia thường đặt mục tiêu GDP hoặc thu nhập bình quân đầu người đến mức độ nào đó để kinh tế được ổn định. Nhưng dù cho thu nhập bình quân đầu người có tăng lên gấp chục lần đi nữa, chẳng hạn như thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam có tăng bằng Mỹ đi nữa, thì thực tế là cũng không có sự ổn định.

Trong phạm vi doanh nghiệp, người đứng đầu tổ chức hoạt động sản xuất – kinh doanh với mong muốn công ty phát triển ổn định, nhưng thực tế không như vậy, thị trường biến động liên tục, nhân sự cũng biến đổi liên tục. Hàng sản xuất ra đang bán chạy nhưng thị trường thay đổi, không bán được nữa; nhân sự nay làm, mai nghỉ việc, v.v…Sự thật vô thường biểu hiện rất rõ khi vận hành một công ty. Nếu không tuệ tri, không chấp nhận vô thường thì người đó vẫn phải xử lý vấn đề, nhưng xử lý trong bức xúc, đau khổ, sầu bi khổ ưu não. Người tuệ tri vô thường, chấp nhận vô thường thì vẫn xử lý sự việc đó, nhưng xử lý với bình thản, bình tĩnh.

Trong phạm vi gia đình, cha mẹ luôn hướng con cái phải xây dựng gia đình, sự nghiệp cho ổn định, an cư mới lạc nghiệp, khi đó thì mới an tâm. Nhưng sự thật là, dù cho một người đã lập gia đình, đã có công ăn việc làm ổn định, đã có nhà, có xe…nhưng vẫn không có được sự an tâm, sự hạnh phúc như họ hằng mong đợi. Những cái đích mới, những mục tiêu mới tiếp tục được đặt ra để theo đuổi nên họ tiếp tục lao tâm khổ trí cho những cái đó. Rồi nhà cửa, xe cộ, công việc, tài sản, tiền bạc…cũng vô thường nên lúc có nhiều, lúc có ít, lúc còn, lúc mất.

– Nhân loại đều ca ngợi, tôn vinh TÌNH YÊU VĨNH CỬU, tình yêu son sắt thủy chung không thay đổi qua thời gian. Các câu chuyện cổ tích thường kết thúc với câu: “Từ đó, hoàng tử và công chúa sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi”. Các bộ phim, các tiểu thuyết với kết thúc có hậu cho cặp đôi chính thường được người xem yêu thích, hài lòng.

Tuy nhiên, bản chất của mọi sự vật hiện tượng, kể cả tình yêu là vô thường. Quan sát trong thực tế, các cặp đôi yêu nhau rồi chia tay, các cặp vợ chồng kết hôn rồi ly hôn chiếm tỉ lệ rất lớn. Vẫn có những cặp vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc răng long, nhưng đa phần họ sống với nhau không phải vì tình yêu, mà vì trách nhiệm, nghĩa vụ, vì các RÀNG BUỘC với tài sản, với con cái, với danh tiếng, với tình dục v.v…Vẫn có một số rất ít các cặp vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc răng long và còn tình yêu với nhau, nhưng tình yêu đó cũng không phải tồn tại thường xuyên, bất biến, mà tình yêu đó lúc có lúc không. Bây giờ yêu, nhưng lát sau lại chán, lại ghét. Buổi sáng yêu, buổi trưa có xung đột, cãi nhau nên chán ghét, buổi tối lại làm lành. Do bản chất của tình yêu là vô thường nên nó sinh diệt liên tục, lúc có lúc không, lúc yêu lúc ghét, nên không bao giờ tồn tại một TÌNH YÊU VĨNH CỬU như mong ước, khao khát của nhân loại.

– Nhân loại cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại theo 3 thời: quá khứ – hiện tại – tương lai. Và trong mỗi 1 con người thì có một cái TA, cái TA đó đã tồn tại trong quá khứ, từ nhỏ đến giờ vẫn là cái TA đó. TA đang hiện hữu trong hiện tại. Sau này mấy mươi năm nữa già đi thì vẫn là cái TA đó.

Các pháp tồn tại theo 3 thời thời gian là hiểu biết chung của nhân loại, là thường kiến chứ chưa thấy được vô thường. Pháp đó đã tồn tại trong quá khứ, đang có mặt trong hiện tại và pháp đó sẽ có mặt trong tương lai. Khi thấy, nghe, cảm nhận thì đều là thấy, nghe, cảm nhận pháp đang có mặt trong hiện tại, chứ không thể thấy, nghe, cảm nhận một pháp trong quá khứ, cũng không thể thấy, nghe, cảm nhận một pháp sẽ xuất hiện trong tương lai. Một pháp chỉ sinh lên và diệt đi một lần duy nhất, chỉ tồn tại một lần duy nhất, pháp đó chưa bao giờ tồn tại trong quá khứ, cũng sẽ không có mặt trong tương lai. Nếu có một pháp từng xuất hiện trong quá khứ, bây giờ tái hiện lại trong hiện tại, và sẽ có mặt trong tương lai thì đó là một pháp cố định, thường hằng, không sinh không diệt. Đó là hiểu biết Thường kiến của nhân loại.

– Mặc dù con người thường nói: “Cuộc sống vô thường”, “Đời người vô thường”, tức là nhân loại cũng đã có hiểu biết về VÔ THƯỜNG, tuy nhiên, do HIỂU BIẾT KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT về vô thường, hiểu biết vô thường theo nghĩa BIẾN ĐỔI, nên “đã biết vô thường nhưng vẫn phiền não”. Do hiểu biết các pháp VÔ THƯỜNG theo nghĩa là các pháp đang BIẾN ĐỔI, như: Hạt gạo biến đổi thành hạt cơm, trẻ biến đổi thành già, thân thể biến đổi từ khỏe sang bệnh, không khí từ lạnh sang nóng, mùa hạ sang thu, từ hoa sang trái, từ xanh sang chín, từ sống sang chết v.v…, nên sau khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng, Tư Duy Suy Diễn theo kinh nghiệm cá nhân khởi lên, SUY ĐOÁN đối tượng đó sẽ mất đi, sẽ không còn tồn tại trong một tương lai xa hay gần nào đó, và vì vậy, đối tượng đó vô thường. Ví như nhìn một đứa bé rồi khởi lên, mấy chục năm nữa nó sẽ chết, nó sẽ vô thường. Thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp rồi hiểu rằng xinh đẹp đó sẽ vô thường trong mươi lăm năm sắp tới. Thấy một bông hoa đang nở tươi rói nhưng nghĩ rằng nó sẽ vô thường vì một tuần sau nó sẽ tàn lụi. Thấy một tòa nhà cao tầng hiện đại, nghĩ rằng nó sẽ bị hủy hoại, sẽ vô thường biến mất sau một ngàn năm nữa … Hiểu biết các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận sẽ biến đổi thành cái khác, sẽ vô thường TRONG TƯƠNG LAI chứ không không phải nó vô thường trong giây phút hiện tại là SUY DIỄN TƯỞNG TƯỢNG ra vô thường mà KHÔNG TRỰC TIẾP thấy vô thường. Với hiểu biết vô thường như vậy thì vẫn còn rất nhiều thời gian để mà tận hưởng Dục lạc, tận hưởng niềm vui, hạnh phúc dài dài từ các đối tượng đó. Hiểu biết vô thường như vậy sẽ đưa đến một lối sống gấp, tận hưởng mọi lạc thú, không để nó trôi qua một cách uổng phí kiểu như, “nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ. Em, em ơi, tình non sắp già rồi”… Hiểu biết vô thường do duy diễn, tưởng tượng như vậy thì Tham ái càng mãnh liệt và Phiền não càng tăng thêm nên mới ca thán: “Đã biết vô thường sao còn phiền não”.

Xem thêm:   Có ai ở đó không? - Một Nỗi Lòng Riêng, Cần ai đó lắng nghe

Nhân loại cho rằng một nhân biến đổi thành quả, cho nên hiểu các pháp biến đổi là vô thường. Nhưng cái vô thường đó đã ẩn chứa cái thường ở đằng sau, là không sinh không diệt. Rồi cách hiểu vô thường, thí dụ như người bình thường nói rằng cái bàn này bây giờ có đây nhưng chắc 5-7 năm nữa nó hư hỏng rồi, người ta đưa nó làm phế liệu, vứt nó đi, không còn tồn tại cái bàn này nữa. Như vậy cái bàn này là vô thường, lúc này có đây nhưng 7 năm nữa nó mất cho nên gọi là vô thường. Hiểu vô thường như vậy gọi là tưởng tượng ra vô thường, chứ không phải thấy biết đúng sự thật về vô thường. Bảy năm nữa cái bàn này mới hỏng, mới vứt đi, còn bây giờ nó đang ở đây, tức là phải tưởng tượng ra bảy năm sau nó mất đi, thì cách hiểu vô thường như vậy là vô thường tưởng tượng ra, chứ không phải thấy sự thật vô thường.

Quan sát sự thật về vô thường: cái bàn là một nhân tố, bàn tay là nhân tố thứ hai, tiếp xúc với nhau, cả hai cùng diệt phát sinh ra cái bàn mới, bàn tay mới và phát sinh ra cảm giác. Mỗi một lần tiếp xúc, bàn cũ diệt, bàn mới sinh. Rồi cái bàn mới này tiếp xúc với ánh sáng, nó sinh lên rồi nó diệt đi. Bàn này tiếp xúc với gió, nó sinh lên nó diệt đi. Cái bàn này đang sinh lên rồi diệt đi liên tục, là một quá trình sinh diệt nối tiếp nhau chứ hoàn toàn không có một cái bàn cố định.

Con người cũng như vậy. Gió thổi lên thân này phát sinh cảm giác mát lạnh, đồng thời phát sinh ra thân thức ghi nhận cảm giác đó, nhưng cũng đồng thời gió và thân này diệt đi, phát sinh luồng gió mới và một thân mới. Mỗi một lần lưỡi tiếp xúc với thức ăn là thân cũ diệt, thân mới sinh. Mỗi một lần tai nghe tiếng thì thân cũ diệt, thân mới sanh, mỗi một lần mắt tiếp xúc với sắc trần thì thân cũ diệt thân mới sanh. Như vậy, thân này là một quá trình sinh diệt nối tiếp nhau liên tục, không có một cái thân nào cố định.

Và như vậy, các sự vật, hiện tượng là các quá trình sinh diệt nối tiếp nhau, không có sự vật nào cố định. Đó là một chuỗi gián đoạn, thành từng nháy một giống như chụp cắt lớp, nối tiếp nhau. Còn nếu như hiểu vô thường theo kiểu biến đổi thì sẽ thấy nó liên tục.

Tham khảo thêm bài viết “Đã biết vô thường sao còn phiền não” – Đại đức Nguyên Tuệ

4. Một số câu hỏi thường gặp về Vô thường

4.1. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo vô thường, vô ngã thì làm sao để duy trì liên tục?

HỎI

Dạ con có một câu hỏi xin sư khai thị. Bát chánh đạo cũng là một pháp duyên khởi, vậy cũng vô thường, vô ngã thì làm sao để duy trì liên tục được ạ !? Con cảm ơn sư!

THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆ ĐÁP

  • Xem nội dung trả lời những câu hỏi về Vô thường tại đây!

Phan Thủy Quyên biên tập và tổng hợp từ các bài pháp của Thiền Sư Nguyên Tuệ

Related Posts