Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn54gần trọn ba mươi năm, chọn lọc giới thiệu, ngợi ca những tinh hoa văn học cổ điển nước nhà.

2.1.1. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi, người anh hùng cứu quốc, nhà tư tưởng nhà văn hoá, nhà thơ, tất cả những phẩm chất trên của Người qui tụ lại trongnhiều tác phẩm văn chương và hậu thế đã tìm hiểu, nghiên cứu ông trên nhiều bình diện. Đinh Gia Khánh nghiên cứu quan điểm vănchương của Nguyễn Trãi; Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi tìm hiểu Quân Trung từ mệnh tập – tập luận chiến sự và ngoại giao, Bình Ngơđại cáo được đánh giá cao qua nhiều bài viết từ Bùi Kỷ, Vũ Khiêu đến Bùi Văn Nguyên, rồi thơ văn chữ Hán, văn thơ Quốc âm cũng đượcnhiều người nghiên cứu khai thác. Trong số đó phải kể đến Xn Diệu, khi bắt đầu cơng trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, người màXuân Diệu chú ý đầu tiên là thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, ơng phát hiện vị trí “Nhà thơ lớn mở đầu thơ cổ điển Việt Nam” [11,97] “Nhàthơ số một” “Người đất Việt đầu tiên làm thơ bằng tiếng Việt”. Xuân Diệu làngười nghiên cứu về Nguyễn Trãi một cách sâu sắc và toàn diện, đặc biệt đối với tập thơ Quốc âm thi tập- “Tập thơ đầu tiên bằng tiếng mẹđẻ của ta, cổ nhất chính xác nhất còn lại cho văn học Việt Nam”.[11, 64].Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc, một nhân vật tồn tài hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời phong kiến. Đã có nhiều bàiviết về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trước Xuân Diệu, người ta thường nghiêng về khẳng định tầm cỡ lớn của Nguyễn Trãi ở phươngdiện anh hùng dân tộc. Tất nhiên Xuân Diệu không phủ nhận điều ấy, nhưng ông muốn nhấn mạnh phương diện con người, phương diện thisỹ của Ức Trai. Khi nghiên cứu tiếp cận Nguyễn Trãi, Xuân Diệu đã tựSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn55xác định cho mình chỉ đóng khung lại trong phạm trù nhà thơ lớn “Nghĩa là lớn trong thơ, qua thơ thấy được cái lớn của Nguyễn Trãivới tư cách là một thi sỹ ở trong bảo tàng văn học” [11, 10]. Trên tinh thần ấy Xuân Diệu đã nghiên cứu và phân tích rất kỹ Quốc âm thi tậpvà giúp cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai – vẻ đẹp tâm hồn của một bậc vĩ nhân nhưng vẫn là “con người nhất thế giữatrần gian” [ 11, 37 ]. Để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn Ức Trai, Xuân Diệu đã so sánh,đối chiếu những bài thơ trùng nhau giữa thơ Nguyễn Trãi với thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này Sau Nguyễn Trãi hơn 100 năm.TheoXuân Diệu so sánh như vậy “không phải để nâng ai hạ ai, vì cùng nằm trong vốn quý của văn học dân tộc”, nhưng Xuân Diệu đã chứng minhmột cách khá thuyết phục về tài thơ của Nguyễn Trãi và đi đến nhận xét rất đích đáng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà đạo đức làm thơ;Nguyễn Trãi chính cống là một tâm hồn thi sỹ”[11,16]. Tâm hồn thi sĩ ấy đã tạo ra 254 bài thơ Nôm, “những bài, những câu, những đoạn đãhay của Nguyễn Trãi “ thi treo giải nhất chi nhường cho ai ”. Mượn câu ca dao Hoa thơm thơm lạ thơm lùng- Thơm gốc thơm rễ ngườitrồng cũng thơm, Xuân Diệu ca ngợi tài thơ đặc biệt là ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: “Ở trong thơ đây chính người trồng thơm trước,nghĩa là chính chất lượng nội dung tâm hồn Ức Trai là cao là sâu, là rộng, là đẹp [11, 21]. Bởi vậy khi tiếp xúc với thơ Nguyễn Trãi, XuânDiệu có cái cảm giác tâm hồn mình “sực nức lan xạ của thơ người”. [11, 21]. Xuân Diệu phát hiện thơ của Nguyễn Trãi “nhiều nội tâm”,nỗi niềm tâm sự trăn trở đầy ắp trong những vần thơ nôm. Nỗi niềm lớn nhất mà Xuân Diệu cảm nhận được ở bậc thi hào này là tấm lòngưu quốc ái dân,“lo nước yêu dân ở trong Nguyễn trãi đã trở thành tâm huyết”,“ Tâm trí Nguyễn Trãi là điển hình cao cả nhất, toàn vẹn nhấtvề lòng ưu ái, ưu quốc ái dân”. Xuân Diệu đã bộc lộ biết bao nhiêuSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn56xúc động và khâm phục trong những nhận xét: “Nguyễn Trãi là ưu ái tâm huyết: Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược- Có nhân có trí có anhhùng; Nguyễn Trãi là chí khí: Khó bền mới phải người quân tử- Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu; Nguyễn Trãi là thuỷ chung: Khi bão mớihay cỏ cứng- Thuở nghèo mới biết có tơi lành; Nguyễn Trãi là son sắt: Bui một tấc lòng trung mới hiếu- Mài chẳng khuyết nhuộm chẳngđen…ý trong những câu thơ này khơng có gì lạ, tình trong thơ thì sáu trăm năm sau, người đọc còn ứa nước mắt” [11,26]. Người đọc chúngta thực sự xúc động khi đọc lời bình của Xn Diệu. Ơng đặc biệt chú ý đến lòng yêu thiên nhiên tạo vật ở Nguyễn Trãi, bởi “ lòng u thiênnhiên tạo vật là một kích thước để đo tâm hồn”. Sau khi cùng Lê Lợi dẹp giặc Minh, cho dù không nguôi đạo làm con mới đạo làm tôi,nhưng trước cảnh ngang trái của triều đình, Nguyễn Trãi đã tự bảo mình lưng khơn uốn lộc nên từ quyết định “ rũ bụi lầm” về ở ẩn CônSơn, về với người bạn lớn thiên nhiên. Nghiên cứu mảng thơ viết về thiên nhiên Xuân Diệu đánh giá “Trong thơ Việt Nam, chưa có mộtnhà thơ nào yêu mến thắm thiết đất nước thiên nhiên và có những vần thơ đẹp đẽ tinh vi sâu sắc về đất nước thiên nhiên cho bằng NguyễnTrãi” [11,40]. Xuân Diệu cắt nghĩa tình yêu thiên nhiên ấy vừa bắt nguồn từ truyền thống nghệ thuật cổ điển Á Đông, vừa là một hiệntượng đặc biệt do sự cao quý của tâm hồn và cũng do tình thế hồn cảnh của Nguyễn Trãi: “Đem thân thế về ẩn dật ở Cơn Sơn, thì lòngu tạo vật của Nguyễn Trãi lại như lửa đổ thêm dầu” [11, 40]. Cùng với Xuân Diệu người đọc bước vào vườn thơ Ức Trai, ở đó nhữngcảnh “cây rợp tán che am mát” “nguyệt mọc đầu non” “khói lan mặt nước”… đã từng lai láng trong thơ Ức Trai lại một lần nữa lấp lánh vẻđẹp trong từng lời bình của Xuân Diệu.Thật ra đây đâu phải là thơ đơn thuần tả cảnh “tranh cổ điển Á Đông “chim, hoa, lá, đá” là tranh mượncảnh vật mà nói sự tinh tế cao thượng thanh tú của tâm hồn, nói trìnhSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn57độ và cỡ xúc cảm của tâm hồn” [11, 40]. Xuân Diệu khẳng định: “Ít có nhà thơ nào hằng nói đến mặt trăng, có nhiều câu hay về mặt trăngnhư Ức Trai”. Theo đó ơng đã dẫn ra nhiều câu thơ hay về trăng của Ức Trai, sau đó ơng dừng lại ở một vài câu một vài từ vừa giải nghĩacặn kẽ vừa bộc lộ cảm xúc: “ Viện có hoa tàn chăng quét đấtNước còn nguyệt hiện sá thơi chèo” Theo tơi nghĩ “ sá thôi chèo” ở đây không nên hiểu như trongquyển Nguyễn Trãi tồn tập: “Còn bóng trăng hiện trên mặt nước sao lại sá thơi chèo?” nghĩa là còn có trăng hiện thì cứ tiếp tục chèođi;…Còn trăng thì còn chèo” vào đây thật không xứng hợp…Tôi nghĩ: chữ “Thôi” ở đây nên hiểu là Giục, là động; nước có trăng hiện trăngsoi, trăng làm cho thành tuyệt đẹp, thì khơng nỡ giục động mái chèo làm xao vỡ bóng trăng trên mặt nước,quấy phá cái yên tĩnh trên mặtnước” [11, 52]. Cách lý giải của Xuân Diệu khá hợp lý, ta thấy nó cũng giống với ý tứ của Nguyễn Trãi trong những câu:“ Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá Rừng tiếc chim về ngại phát cây”Hay “ Hé cửa, đem chờ hương quế lọt Quét hiên, ngày lệ = e ngại bóng hoa lan”Bằng cách đó Xuân Diệu đã giúp người đọc cảm nhận được độ tinh tế thanh tao của tâm hồn Ức Trai, tâm hồn của “một bậc thơ chínhcống”. Chỉ cần bình một từ trong câu thơ Ngày vắng xem hoa bợ cây, mà người đọc thấm thía tận gan ruột tình yêu thương của Nguyễn Trãidành cho vạn vật: “Chúng ta thường biết một chữ dùng cũng nói được cái tầm lớn củamột thi sĩ.Nguyễn Trãi nói bợ cây”, là ta thấy cả cái yêu thương của Nguyễn Trãi đối với mọi sinh vật, năng đỡ từng nhánh lá như bưngmột cái gì thanh tao và biết cảm nghĩ….Suốt đời mình, Nguyễn TrãiSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn58chưa hề bợ đỡ ai, bợ đỡ người nào, nhưng đối với cây thì ơng bợ ơng đỡ..” [11, 81]. Mượn cách nói của Hồng đế Napơnêơng đệ nhất khilần đầu tiên gặp thi hào Gớttơ: “ Gớttơ tiên sinh Tiên sinh là một con người” Xuân Diệu cho rằng qua Quốc âm thi tập chúng ta có đủ yếutố để nói “bậc vĩ nhân, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi là một con người….Tôi nghĩ rằng đây là lời khen cao nhất” [11, 95]. ĐúngNguyễn Trãi là một “con người”- “ con người nhất thế giữa trần gian”. Chính cái phần con người thông thường, cái phần như mọingười thường làm cho một vĩ nhân mới hoàn chỉnh là một vĩ nhân trọn vẹn. Đây chính là điều mà Xuân Diệu cảm thấy thú vị nhất, sungsướng nhất khi đọc Quốc âm thi tập. Bậc vĩ nhân nhưng cũng là “một con người nhất thế giữa trần gian”, điều đó khiến cho chúng ta“kính” Nguyễn Trãi mà không “viễn chi”. Thực ra khi lần đầu tiên nghiên cứu thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Xuân Diệu chưa phát hiện rađiều này, ông tâm sự:“ Trong Quốc âm thi tập, cả phần cuối từ Thời lệnh môn, qua Hoa mộc môn, qua Cầm thú môn, từ bài số 193 đến bài254 thường bị đọc một cách qua loa; cụ thể là bản thân tôi dường như tát cả chú ý đã dồn vào cái phần quan trọng bên trên, nói những chíkhí, tâm sự vĩ đại hơn, rồi đến 61 bài thơ sau cùng, có cảm tưởng như là đầu đày, coi thường không chú trọng đọc kỹ”. Phải đến 22 năm sau,khi đọc kỹ 61 bài cuối tập, Xuân Diệu đã phát hiện ra “có một Nguyễn Trãi rất thân mật, rất mến thương” trong thơ.[11,55]. Từ góc nhìn ấyXuân Diệu thấy Nguyễn Trãi cũng là một người cụ thể do bố mẹ, ông bà sinh ra, có cá tính bẩm sinh cụ thể, đồng thời cũng buồn vui,sướng khổ, giận ghét yêu mến như mọi người. Bằng giọng văn thân mật mến thương Xuân Diệu gợi lại giai thoại về Nguyễn Trãi và côbán chiếu, thật thú vị, Xuân Diệu đặt Ức Trai cùng vai vế với tất cả thanh niên xưa và nay trong việc tán gái. “Ông hồng” của thơ tìnhViệt Nam hiện đại tỏ ra rất nhạy cảm và đồng điệu với chất đa tình ởSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn59hồn thơ cổ điển Nguyễn Trãi. Khi đọc lời bình của Xuân Diệu, ta ngỡ ngàng nhận ra một Nguyễn Trãi cũng đa tình lãng mạn như bất cứ mộtngười đàn ông nào trên thế gian này: “ Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồngĐầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng Ngồi ấy dầu còn áo lẻCả lòng mượn đắp lấy hơi cùng” “ Bài này ta không nên hiểu theo ý nghĩa xã hội: thừa áo thì sansẻ cho người nghèo khổ thiếu áo…..Bài tứ tuyệt trên đây hiểu là lời nam nói với nữ, thì sẽ thấy nhà thơ vơ hạn ý nhị; đầm ấm, thì thươngkẻ lạnh lùng, kêu gọi theo cái kiểu ca dao Bình Định: Hỡi người gánh nước Truông Mây- Cho xin một gáo tưới dây tơ hồng, rồi xin tiếp:nếu “ngoài ấy”, hiểu là “đằng ấy” cũng được, mà “áo lẻ”, áo không vào bộ, hơn nữa, lại “cả lòng”, rộng lượng, thì cho tơi “mượn” để đắp,đặng mà “lấy hơi cùng” Nhà thơ này quả là một khách tài tình” [11, 60].Khơng phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu bình rất kỹ bài thơ Ba tiêu Cây chuối, phải chăng nhà thơ tình yêu Xuân Diệu đã bắt gặpchất trẻ trung đầy xn tình xn ý tốt ra từ tâm hồn Ức Trai. Chính cái chất “Người” ấy, chính cái vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sỹ ấyđã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc, tạo nên sức hấp dẫn lâu bền cho thơ Nôm Nguyễn Trãi. Đó cũng chính là lí do khiến Nguyễn Trãikhơng chỉ có mặt trong “Bảo tàng lịch sử” mà còn có vị trí cao trong “Bảo tàng văn học”Việt Nam.Theo sự đánh giá của Xuân Diệu Quốc âm thi tập Là “Tập thơ đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ của ta, cổ nhất chính xác nhất còn lại chovăn học Việt Nam”, thơ Nguyễn Trãi là loại thơ khó, một phần vì ngơn ngữ cổ, một phần vì nội dung cao, người đọc chúng ta sáu thế kỷ sauđọc và hiểu tập thơ không phải là điều dễ dàng. Qua những trang phêSố hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http:www.lrc-tnu.edu.vn60bình của Xuân Diệu, người đọc không chỉ hiểu được giá trị của tập thơ trong nền thơ dân tộc,mà còn cảm nhận được một cách tinh tế và sâusắc chân dung tâm hồn đẹp đẽ của thi hào Nguyễn Trãi. Thực ra những suy nghĩ nhận định trên của Xn Diệu cũng khơng có gì là mới, cùngvới Xuân Diệu, giới phê bình nghiên cứu về Nguyễn Trãi nhiều người cũng đã từng ngưỡng mộ và ngợi ca. Có điều với Quốc âm thi tậpXuân Diệu là người nghiên cứu sớm nhất, sâu sắc nhất,đồng thời qua cách diễn đạt của mình, Xuân Diệu đã làm cho thơ Ức Trai vốn là thơcổ cách chúng ta sáu thế kỷ vẫn trở nên gần gũi với người đọc.

Xem thêm:   Của đau, con xót

2.1.2 Những phát hiện về chủ nghĩa nhân đạo trongTruyện Kiều của Nguyễn Du

Related Posts