Nguyễn Bính là một nhà thơ nổi tiếng thuộc phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những diễn đạt mới lạ, thơ của Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng thân quen với ca dao dân ca, đơn giản và ngọt ngào, thắm thiết. Bài thơ Tương tư được tìm thấy trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản vào năm 1940 tại Hà Nội.
1. Bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giờ
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng
Vì sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh đã chuyển thành lá vàng.
Có nói cách trở đò giang,
Không sang đây chẳng đường sang đã đành.
Nhưng cách này một trăm dặm,
Đã xa xôi đến mấy cũng tình xa xôi.
Tương tư thức đêm sau đêm,
Biết cho ai, hỏi ai, ai biết cho!
Khi nào mới gặp đò bến?
Hoa khuê và bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một vườn xuân,
Nhà anh có một hàng cau liên hoành.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông nhân,
Cau của thôn Đoài có phải là không?
2. Đôi nét về tác giả Nguyễn Bính
2.1 Vài thông tin cá nhân
Nguyễn Bính (1918 – 1966) có tên thật là Nguyễn Trọng Bính (cũng đã sử dụng tên Nguyễn Bính Thuyết), sinh ra và lớn lên tại làng Thiện Vịnh, xã Đông Hội (nay thuộc xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính sinh ra trong một gia đình nho nhỏ, từ nhỏ đã mất mẹ và phải đi lên Hà Nội kiếm sống với anh trai. Nguyễn Bính bắt đầu viết thơ từ khi mới 13 tuổi và nhanh chóng thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông đi vào Nam Bộ và tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, ông trở về Bắc và tiếp tục công tác văn nghệ.
Trong khi hầu hết các nhà thơ cùng thời đều bị ảnh hưởng bởi thơ phương Tây, Nguyễn Bính lại quay trở về với tinh thần thơ dân tộc và thu hút độc giả bằng lời thơ đậm chất dân gian. Với lối viết giản dị mà đầy duyên dáng, mang hương vị quê hương mộc mạc, thơ của Nguyễn Bính mang đến cho người đọc những hình ảnh đáng yêu về quê hương, đất nước và tình yêu thiết tha. Vì vậy, ông được coi là nhà thơ đồng quê và những tác phẩm của ông được truyền tụng rộng rãi.
2.2 Sự nghiệp văn học
Các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bính trước Cách mạng bao gồm: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ – 1944). Sau Cách mạng, ông đã sáng tác những tác phẩm như: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958), Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo – 1961), Người lái dò sông Vị (chèo – 1962)…
3. Giới thiệu về bài thơ Tương tư
a. Xuất xứ – Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Tương tư được chọn từ tập Lỡ bước sang ngang (1940).
- Nguyễn Bính viết bài thơ này tại làng Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội) vào năm 1939.
b. Nhan đề
- Tương tư: là sự nhớ nhung của tình yêu đôi lứa, là hiện thân của tình yêu (nỗi nhớ trong tâm hồn và tình yêu trong trái tim).
- Khoảng cách về không gian và thời gian là lý do cho tình yêu đơn phương → Tương tư là sự khát khao, nỗ lực vượt qua không gian và chiến thắng thời gian để gần gũi nhau.
- Đây là dạng biểu thức phong phú và phức tạp nhất của tình yêu.
c. Cấu trúc: 2 phần
- Phần 1: 16 câu đầu tiên: Tâm trạng tương tư của chàng trai.
- Phần 2: 4 câu cuối cùng: Ước muốn hòa hợp của đôi lứa.
d. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện một tình yêu trong sáng, mạnh mẽ và đơn phương.
- Hiện thực hóa tình cảm chân thành, thấm đượm bản sắc văn hóa dân gian Việt Nam.
e. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ lục bát: thể hiện tính dân tộc sâu sắc, mang tính biểu cảm mạnh mẽ.
- Ngôn ngữ đơn giản, thân thiện, dân dã nhưng vẫn mang đậm chất lạng mạn, tươi sáng.
- Sử dụng các hình ảnh tương phản như trầu – cau, bến – đò, hoa – bướm, thôn Đoài – thôn Đông; nhấn mạnh khái niệm về sự gắn bó và trung thành trong tình yêu…
- Kết hợp với các yếu tố dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp chân quê, đại diện cho phong cách sáng tác của Nguyễn Bính.