Giọt mồ hôi và chìm trong suy tư
Trần Tế Xương (hay Tú Xương) là tên thật Trần Duy Uyên, tự Tử Thịnh, Mặc Trai, hiệu Mộng Tích. Sau khi đỗ Tú tài, ông nhận biệt danh Tú Xương. Ông sinh ngày mùng 10 tháng 8 năm Canh Ngọ (tức ngày 5 tháng 9 năm 1870) ở làng Vỵ Xuyên, huyện Mỹ Lộc, sau này trở thành phố Nam Định. Gia đình ông xuất thân từ một gia đình nghèo, cha là cụ Trần Duy Nhuận, làm chức Tự thừa ở dinh Đốc học Nam Định. Trần Tế Xương đã sớm kết hôn với bà Phạm Thị Mẫn, người gốc Đông Hải Dương, được xem là tượng đài của đức tính tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam xưa, biết làm việc chăm chỉ, tận tụy vợ chồng và con cái, kiên nhẫn, “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công”. Bà là người duy nhất đồng hành, đồng lực cho chồng trong việc học tập, thi cử, viết thơ và giao du: “Cho hay công nợ âu là thế/ Mà vẫn phong lưu suốt cả đời”, “Kìa thơ tri kỷ đàn anh nhất/ Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì”…
Người dân đến tham quan Di tích lưu niệm nhà thơ Tú Xương tại số 280, phố Minh Khai (thành phố Nam Định). Ảnh: Viết Dư
Giai đoạn khốn khó và tình yêu quê hương
Trần Tế Xương sống trong thời kỳ khó khăn nhất của dân tộc, phong trào yêu nước Cần Vương dần trở nên yếu đuối. Năm 1873, Pháp tấn công Hà Nội lần đầu tiên và sau đó tiếp tục xâm lược Nam Định. Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn chính thức ký kết hiệp ước để nhường đất nước cho Pháp. Trần Tế Xương, với lòng nhiệt huyết học hành và tài năng làm thơ, có ước mơ trở thành người thành đạt để có một cuộc sống tử tế. Ông tham gia các kỳ thi từ năm 1886 đến năm 1906, đạt tám lần. Tuy nhiên, do phong cách phóng khoáng và không tuân thủ theo lối văn khuôn sáo cử nghiệp, cộng với cách thức thi cử “chọn nhân tài” của chế độ thực dân, ông gặp nhiều khó khăn. Ông chỉ đỗ Tú tài thiên thủ sau khi tham gia cả tám kỳ thi, vào năm 1894, khi ông 24 tuổi chỉ đạt vị trí cuối cùng. Mặc dù đã cố gắng đọc sách hết sức để có tấm bằng cử nhân và thoát khỏi cảnh “thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ”, nhưng ông nhận ra rằng không có cửa nào mở cho những người như ông. Ông chấp nhận số phận và tiếp tục sống trong một môi trường bị chi phối sâu sắc bởi chế độ thực dân, nơi đạo đức và nhân văn bị pha trộn và lẫn lộn.
Cuộc sống của một nhân cách văn hóa
Mặc dù cuộc sống của Trần Tế Xương không suôn sẻ, ông không buông xuôi hay nhún nhường. Ông đã chọn cho mình con đường “nhập thế” của một “nhà nho – quân tử”, với cương vị và phẩm chất của một người trí thức phương Bắc: “Nhập thế cục bất khả vô văn tự”. Những bài thơ của ông có vẻ hài hước, mỉa mai, không quan tâm nhưng thực tế chỉ là mặt ngoài, còn bên trong chứa đựng tâm sự sâu nặng của một nhà văn tài năng trong thời đại khó khăn và nhạy bén: “Trời không chớp bể với mưa nguồn/ Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”, “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”, “Tình này ai tỏ cho ta nhỉ/ Tâm sự năm canh một ngọn đèn”, “Thiên hạ dễ thường ai ngủ cả/ Việc gì mà thức một mình ta”, “Non non, nước nước, tình tình/ Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ”… Ông tự nguyện sống với tác phẩm thi ca và sáng tạo trong lĩnh vực thơ. Đó chính là hành vi văn hóa đích thực, cách ứng xử của một nhân cách văn hóa mang tên Trần Tế Xương.
Sự phát triển của nghệ thuật và di sản của ông
Trần Tế Xương đã đóng góp vào sự phát triển của thơ ca dân tộc, từ bỏ những hình thức trừu tượng và quy phạm của nghệ thuật văn học trung đại. Ông đã nâng ngôn ngữ thường dùng thành ngôn ngữ nghệ thuật với tất cả sức mạnh diễn đạt, tính hàm ngôn và vẻ đẹp thẩm mỹ. Ông sáng tác nhiều bài thơ, đặc biệt là thơ viết bằng chữ Nôm với các thể thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục bát và song thất lục bát. Bên cạnh việc làm thơ, ông cũng viết một số văn phú và là một dịch giả tài hoa trong việc dịch thơ Đường Trung Quốc. Mặc dù ông qua đời sớm vào ngày rằm tháng Chạp năm Bính Ngọ (ngày 28 tháng 1 năm 1907) sau một cơn bệnh nặng, khi ông mới 37 tuổi và đang thi tốt nhất trong cuộc đời, nhưng di sản của ông vẫn tồn tại và được tôn vinh. Trần Tế Xương được coi là một trong những nhà thơ trào phúng lớn nhất thế giới (theo Giáo sư Albert Smit – Anh), một trong năm ngôi sao sáng nhất trong bầu trời thơ ca Việt Nam (theo Jean Courier – Pháp), “Thần thơ thánh chữ” (theo Nguyễn Công Hoan), một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam (theo Nguyễn Tuân), và đã góp phần quan trọng vào việc đánh thức tiếng nói văn học dân tộc (theo Chế Lan Viên).
Lời tri ân
Chúng ta tri ân linh hồn của nhà thơ Trần Tế Xương, người đã cống hiến cả tâm hồn, tài năng và nghị lực của mình cho đất nước. Đôi khi, chúng ta đòi hỏi những điều không thể có, những điều mà người ta không thể có, hoặc chưa thể có, nhưng chúng ta không thấy được những đóng góp to lớn mà nhà thơ đã mang đến với thi ca và văn hóa. Trần Tế Xương đã trở thành một trong năm nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Hãy tự hào vì trong mảnh đất Nam Định đã có một truyền thống văn hóa đặc biệt, và chúng ta càng tự hào hơn khi có nhà thơ Trần Tế Xương – một trong những nhân cách văn hóa xuất sắc của truyền thống văn hóa Nam Định và văn học Việt Nam.